António José da Conceição Oliveira (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1946), hay Toni (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈtɔni]), là một cựu tiền vệ và huấn luyện viên bóng đá người Bồ Đào Nha. Hãy cùng tìm hiểu về António Oliveira là ai trong bài viết sau nhé.
Tiểu sử Antonio Oliveira
Họ và tên | António José da Conceição Oliveira | ||
---|---|---|---|
Ngày sinh | 14 tháng 10 năm 1946 (77 tuổi) | ||
Nơi sinh | Mogofores, Bồ Đào Nha | ||
Chiều cao | 1,83 m (6 ft 0 in) | ||
(Các) vị trí | Tiền vệ |
Là tuyển thủ Bồ Đào Nha hơn 30 lần, sự nghiệp của anh chủ yếu gắn liền với Benfica. Anh ấy đã giành được tổng cộng 22 danh hiệu lớn với câu lạc bộ chính của mình với tư cách vừa là cầu thủ vừa là người quản lý, đồng thời cũng làm việc ở vị trí thứ hai ở sáu quốc gia khác.
Sự nghiệp thi đấu của António Oliveira
Sự nghiệp câu lạc bộ
Theo nguồn từ Xôi Lạc Tivi thì Toni bắt đầu chơi bóng có tổ chức tại Anadia FC địa phương, và gia nhập Académica de Coimbra ở tuổi 18 khi được huấn luyện viên Mário Wilson ký hợp đồng. Trong thời gian thi đấu cho câu lạc bộ sau này, anh hiếm khi được ra sân trong ba mùa giải Primeira Liga.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 1968, Toni gia nhập SL Benfica với mức phí chuyển nhượng 1.305.000 escudos. Anh ấy đã ghi một bàn sau 22 trận trong chiến dịch đầu tiên của mình, giúp đội của anh ấy giành chức vô địch quốc gia.
Toni là một phần của đội bóng huyền thoại do Jimmy Hagan dẫn dắt đã liên tiếp vô địch các giải quốc nội từ năm 1971–1973, chỉ thua một trận trong 60 trận; Với thành tích này, anh đã đóng góp 3 bàn thắng sau 50 lần ra sân. Trước khi giải nghệ vào năm 1981 ở tuổi 34, anh đã ra sân trong 391 trận đấu cho câu lạc bộ chính của mình (23 bàn) và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bồ Đào Nha vào năm 1972.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế
Toni đã có 32 lần khoác áo Bồ Đào Nha, trận ra mắt của anh diễn ra vào ngày 12 tháng 10 năm 1969 trong trận thua 0-0 trước Romania ở vòng loại FIFA World Cup 1970. Trận đấu cuối cùng của anh ấy diễn ra tám năm sau, trong trận thua 0-0 trong trận giao hữu trước Pháp.
Toni là thành viên của đội tuyển quốc gia tại Cúp Độc lập Brazil năm 1972, để thua đội chủ nhà.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Một năm sau khi giải nghệ, Toni bắt đầu làm trợ lý tại Benfica, liên tiếp giữ vị trí dưới quyền Sven-Göran Eriksson, Pál Csernai, John Mortimore và Ebbe Skovdahl. Ông được thăng chức làm huấn luyện viên trưởng sớm vào mùa giải 1987–88, và dẫn dắt đội đến vị trí thứ hai trong giải đấu và vào chung kết Cúp C1 châu Âu, nhưng thua PSV Eindhoven trên chấm phạt đền.
Toni đã dẫn dắt Benfica giành chức vô địch quốc gia lần thứ 28 trong chiến dịch 1988–89, chỉ thua hai lần sau 38 trận. Sau khi thay thế Tomislav Ivić bị sa thải vào tháng 11 năm 1992, ông đã vô địch một giải đấu khác vào năm 1994.
Bắt đầu từ năm 1994, Toni dành một năm làm việc ở nước ngoài, với đội bóng Ligue 1 FC Girondins de Bordeaux và Sevilla FC ở La Liga Tây Ban Nha. Anh ấy đã giành được UEFA Intertoto Cup cùng đội cũ, nhưng bị sa thải do kết quả kém cỏi ở giải quốc nội; sau đó, anh đến Sân vận động Ramón Sánchez Pizjuán cùng với cầu thủ Emílio Peixe, bị miễn nhiệm vào ngày 15 tháng 10 năm 1995 sau trận thua 0-3 trên sân nhà trước RCD Espanyol.
Năm 1999, Toni hỗ trợ đồng hương Carlos Queiroz ở đội tuyển quốc gia Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Vào tháng 12 năm sau, người cũ trở lại Benfica lần thứ ba sau khi José Mourinho từ chức chủ tịch mới Manuel Vilarinho đã tuyên bố ý định mang về Toni trong chiến dịch bầu cử, khi Mourinho rời đi giữa chừng 2000–01.
Trong những năm tiếp theo, Toni phụ trách Shenyang Jinde FC (Giải VĐQG Trung Quốc), Al-Ahly SC (Giải Ngoại hạng Ai Cập, giành Siêu cúp quốc nội), Ettifaq FC (Giải chuyên nghiệp Ả Rập Xê Út, đưa họ lên vị trí thứ 4) và Al -Sharjah SCC (Liên đoàn vùng Vịnh Ả Rập UAE). Trong FIFA World Cup 2010, anh đóng vai trò là nhà phân tích trận đấu cho Bờ Biển Ngà.
Toni trở lại Ả Rập Xê Út vào mùa hè năm 2010, lọt vào bán kết AFC Champions League với Ittihad FC. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2012, anh ký hợp đồng hai năm với câu lạc bộ Iran Pro League Tractor SC. Sau khi không vượt qua được vòng bảng Champions League 2013, hợp đồng của Toni sẽ không được gia hạn và anh ấy đã rời đi vào tháng 5.
Tuy nhiên, anh đã trở lại vào ngày 28 tháng 1 năm 2014, giành chức vô địch Iran Hazfi Cup mùa đó sau khi đánh bại Sanat Mes Kerman FC. Vào ngày 12 tháng 2 năm 2015, Toni trở lại Tractor lần thứ ba sau khi đồng ý với hợp đồng có thời hạn một năm rưỡi. Ông đã rời bỏ vị trí của mình vào tháng 12.
Danh hiệu và thành tích
Cầu thủ
Académica
- Á quân Taça de Portugal: 1966–67
Benfica
- Primeira Divisão: 1968–69, 1970–71, 1971–72, 1972–73, 1974–75, 1975–76, 1976–77, 1980–81
- Taça de Portugal: 1968–69, 1969–70, 1971–72, 1979–80
- Supertaça Cândido de Oliveira: 1979
- Taça de Honra (6)
Cá nhân
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bồ Đào Nha: 1972
Huấn luyện viên
Benfica
- Primeira Division: 1988–89, 1993–94
- Taça de Bồ Đào Nha: 1992–93
- Á quân Supertaça Cândido de Oliveira: 1987, 1993
- Á quân Cúp C1 châu Âu: 1987–88
Bordeaux
- Cúp Intertoto: 1995
Al-Ahly
- Siêu cúp Ai Cập: 2003
Al-Ittifaq
- Á quân Cúp Thái tử Ả Rập Xê Út: 2008
- Á quân GCC Champions League: 2007
Ittihad
- Á quân King Cup of Champions: 2011
Tractor
- Cúp Hazfi Iran: 2013–14
Kazma
- Cúp Liên đoàn Kuwait: 2017–18
Cá nhân
- Người quản lý IFCA của tháng: Tháng 2 năm 2015